HAI TỘI ÁC LỚN: SỰ HẬN THÙ VÀ LÒNG NGU DỐT
Trình bày trước Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc tại New York ngày 10 tháng 11 năm 1975.

Kính thưa Ngài Chủ tịch,

Thật là một biểu tượng lớn khi cuộc tranh luận này, với khả năng rất lớn sẽ trở thành một bước ngoặc đối với vận mệnh của Liên Hiệp Quốc và là nhân tố then chốt cho khả năng tồn tại tiếp tục của Tổ chức này, lại xảy ra hôm nay ngày 10 Tháng 11. Chính ngày này đêm nay, cách đây 37 năm, đã đi vào lịch sử với tên gọi Kristallnacht hay là Đêm Thủy Tinh. Chính buổi tối ngày 10 tháng 11 năm 1938, bộ đội bão táp Đức Quốc Xã (SA – Sturmabteilung hay stormtroopers) của Hitler đã tổ chức một cuộc phối hợp tấn công vào cộng đồng Do Thái ở Đức, thiêu đốt hàng loạt giáo đường Do Thái ở tất cả các thành phố và đốt nhiều đống lửa trên đường phố với những Quyển và Cuộn Thánh Kinh và Kinh Luật Do Thái. Đây là đêm nhà của người Do Thái bị tấn công và nhiều người chủ gia đình bị bắt đi, rất nhiều người trong số đó không bao giờ quay trở về. Đây là đêm cửa kính ở rất nhiều hãng xưởng và cửa hàng của người Do Thái bị đập nát rơi phủ đầy trên các đường phố trong các thành phố của Đức thành một lớp kính vỡ tan tành thành hàng triệu mảnh thủy tinh, khiến mang đến cái tên cho đêm đó là Kristallnacht hay là Đêm Thủy Tinh. Đây là đêm khởi đầu để cuối cùng dẫn đến những phòng hơi ngạt và lò hỏa thiêu, dẫn đến những Auschwitz, Birkenau, Dachau, Buchenwald, Theresienstadt và rất nhiều trại tập trung khác. Đây là đêm khởi đầu của tội ác diệt chủng kinh khiếp nhất trong lịch sử loài người.

Thực sự quá hợp khi bản thảo này được đem ra tranh luận hôm nay cũng được thai nghén bởi ước muốn lèo lái Trung Đông ra khỏi hướng đi hướng về hòa bình, và được sinh ra bởi cảm giác chống Do Thái thật sâu rộng, và lại được đưa tranh luận vào đúng cái ngày nhắc nhớ một trong những ngày bi thảm của một trong những thời khắc đen tối nhất lịch sử. Thực sự quá hợp khi Liên Hiệp Quốc khởi đầu hoạt động của nó là một hội Đồng Minh chống lại Đức Quốc Xã, mà 30 năm sau lại tự nhiên trở thành trung tâm bài bác Do Thái của cả thế giới. Hitler chắc hẳn phải cảm thấy thoải mái như ở nhà vào nhiều dịp trong năm qua, khi nghe các cuộc họp trong hình thức chống Do Thái thế này, và trên hết là, những cuộc họp tranh luận về Chủ nghĩa Do Thái.

Thật là một suy tư làm ta tỉnh thức để cân nhắc việc tổ chức này đã bị xuống cấp đến đâu, nếu hôm nay chúng ta bị buộc phải suy nghĩ về một cuộc tấn công vào Chủ nghĩa Do Thái. Vì cuộc tấn công này không chỉ là chống Do Thái một cách bẩn thỉu nhất mà còn là cuộc tấn công, ngay trong Liên Hợp Quốc, vào Do Thái Giáo, một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, một tôn giáo đã mang đến cho thế giới những giá trị nhân văn của Thánh Kinh, một tôn giáo mà từ đó là nguồn gốc ra đời hai tôn giáo khác, KiTô Giáo và Hồi Giáo – một tôn giáo vĩ đại và lâu đời đã mang đến thế giới Quyển Thánh Kinh với 10 Điều Răn; những nhà tiên tri vĩ đại thời cổ đại, Moses, Isaiah, Amos; những nhà tư tưởng vĩ đại trong lịch sử, Maimonides, Spinoxa, Marx, Einstein; rất nhiều tài năng nghệ thuật; và một tỉ lệ các cá nhân thắng giải Nobel trên thế giới về các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật và xã hội, cao như thành tích của bất kỳ dân tộc nào khác trên thế giới.

Người ta chỉ có thể suy nghĩ và kinh ngạc về khả năng có thể của các nước – tự xem họ thuộc về thế giới văn minh – tham gia vào cuộc tấn công có tổ chức đầu tiên, kể từ thời Trung Cổ, vào một tôn giáo có đã lâu đời. Vâng, đến mức sâu như thế này, chúng ta đã bị những người đề nghị ra bản thảo nghị quyết này kéo chúng ngược về thời Trung Cổ.

Bản thảo nghị quyết được đưa ra trước Ủy Ban Thứ Ba đầu tiên bắt nguồn từ bản nghị quyết lên án chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc và chủ nghĩa thuộc địa, vấn đề mà lẽ ra đã có thể đạt được đồng thuận một đồng thuận rất quan trọng đối với tất cả chúng ta, nhất là đối với các bạn châu Phi. Tuy nhiên thay vì cho phép việc này xảy ra, một nhóm quốc gia, say sưa với cảm giác quyền lực mặc nhiên từ số đông, và bất kể tầm quan trọng của việc phải đạt được đồng thuận về vấn đề này, đã sử dụng quyền lực số đông để đẩy Ủy Ban Thứ Ba một cách kiêu căng vào gẵn Chủ nghĩa Do Thái vào với vấn đề cần thảo luận. Thực sự là khó mà nói đến hành vi thấp hèn này một cách lễ độ dù ta nhẫn nhịn đến thế nào.

Tôi bước đến bục diễn đàn này không phải để bênh vực cho giá trị đạo đức và lịch sử của người Do Thái. Các điều đó không cần được bênh vực. Chúng tự nói cho chính chúng. Chúng đã mang đến cho loài người nhiều điều vĩ đại và bất tử. Chúng đã đạt được nhiều giá trị tinh thần cho nhân loại, nhiều hơn chúng ta có thể tỏ lòng biết ơn trong một diễn đàn như thế này.

Tôi đến đây để lên án hai tội ác rất lớn đang đe dọa xã hội nói chung và một hội đoàn của các quốc gia nói riêng. Đó là hận thù và ngu dốt. Hai tội ác đó chính là động lực phía sau những người thúc đẩy bản thảo nghị quyết này và những người ủng hộ họ. Hai đặc tính này thể hiện tính chất của những người đang hạ thấp tổ chức quốc tế này, tổ chức mà các ý tưởng hình thành đã được thai nghén đầu tiên bởi các nhà tiên tri của Israel, hạ thấp xuống tới mức như ngày hôm nay.

Điểm chính yếu để hiểu Chủ nghĩa Do Thái nằm trong cái tên “Zionism” của nó. Trong Thánh Kinh, đầu cực Tây của hai ngọn đồi của thành cổ Jerusalem có tên là “Zion”. Lúc đó vào khoảng thế kỷ thứ 10 trước Công nguyên. Thực tế, tên “Zion” xuất hiện 152 lần trong Cựu Ước để chỉ thành phố Jerusalem. Tên này tràn ngập là một tên gọi thi ca và tiên tri. Giá trị tôn giáo và tình cảm của tên “Zion” xuất phát từ tầm quan trọng của Jerusalem – Thành phố Hoàng Gia và Thành Phố Của Đền Thờ Chúa. Theo Thánh Kinh, “Núi Zion” là nơi Thượng Đế ở. Jerusalem hay “Zion” là nơi Thượng Đế là Vua theo Isaiah, và trích từ sách Thi Thiên, là nơi Thượng Đế đã đặt Vua David lên làm vua.

Vua David đã biến Jerusalem thành thủ đô của Israel cách đây gần 3000 năm và Jerusalem đã luôn luôn là thủ đô của Do Thái từ ngày đó. Hàng thế kỷ đã trôi qua, thuật ngữ “Zion” đã ngày càng phát triển và rộng lớn để mang ý nghĩa đại diện cho toàn thể Do Thái. Người Israel tha hương không bao giờ có thể quên “Zion”.

Người viết Thi Thiên Do Thái đã ngồi bên cạnh các dòng sông của Babylon và thề nguyện: “Nếu ta mà quên người, hỡi Jerusalem, thì hãy để tay phải quên mất sự khôn ngoan của nó”. Lời thề nguyền này đã được người Do Thái lặp đi lặp lại hàng ngàn năm qua ở khắp nơi trên thế giới. Đây là lời thề nguyền đã có từ 700 năm trước khi Ki Tô Giáo ra đời và hơn 1200 năm trước khi Hồi Giáo có mặt.

Với tất cả những ý nghĩa này, “Zion” có nghĩa là quê nhà của người Do Thái, biểu tượng của Do Thái Giáo, của các khát vọng dân tộc của người Do Thái.

Mọi người Do Thái, khi cầu nguyện với Thượng Đế, dù ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, đều hướng mặt về Jerusalem. Họ đã cầu nguyện như thế hơn 2000 năm tha hương với khát khao được trở về mảnh đất quê hương xa xưa, Israel. Trên thực tế, người Do Thái, dù ít hay nhiều, vẫn luôn hiện diện trên mảnh đất này hàng thế kỷ qua.

“Zionism” – Chủ nghĩa Do Thái là tên gọi cho phong trào quốc gia của người Do Thái và là tiếng nói ngày nay của di sản Do Thái từ ngàn xưa. Lý tưởng của Chủ nghĩa Do Thái, như đã được nói lên trong Thánh Kinh, đã là và sẽ luôn là, một phần cốt lõi của Do Thái Giáo.

Chủ nghĩa Do Thái đối với người Do Thái chẳng khác nào phong trào giải phóng của Phi Châu và Á Châu. Chủ nghĩa Do Thái là một trong những phong trào quốc gia sôi nổi và mang tính xây dựng nhất trong lịch sử loài người. Về mặt lịch sử, chủ nghĩa này đặt nền tảng trên liên hệ đặc biệt và liên tục, kéo dài suốt 4000 năm, giữa Dân Tộc Của Thánh Kinh và Vùng Đất Của Thánh Kinh.

Trong thời hiện đại, từ cuối thế kỷ 19, được khuyến khích bởi 2 động lực đi đôi với nhau: sự ngược đãi người Do Thái và chủ nghĩa quốc gia, người Do Thái đã tổ chức phong trào Do Thái nhằm biến giấc mơ của mình thành hiện thực. Là một phong trào chính trị, Chủ nghĩa Do Thái là cuộc nổi dậy của một dân tộc bị đàn áp chống lại những áp bức và kỳ thị chủng tộc tàn nhẫn ở các quốc gia tràn ngập tư tưởng bài Do Thái. Đây thực sự không phải là ngẫu nhiên, mà cũng không có gì ngạc nhiên, khi các quốc gia đỡ đầu và ủng hộ cho bản thảo nghị quyết này gồm có các quốc gia có tội vi phạm tội ác dã man chống lại và kỳ thị người Do Thái cho đến tận ngày nay.

Ủng hộ mục tiêu của Chủ nghĩa Do Thái đã được viết trong bản Đặc Mệnh của Hội Quốc Liên cho Palestine, và một lần nữa được ủng hộ bởi Liên Hiệp Quốc năm 1947, khi Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, với đại đa số phiếu thuận, ủng hộ sự hồi phục độc lập của người Do Thái trên mảnh đất xa xưa của chúng tôi.

Việc tái thiết lập sự độc lập của người Do Thái tại Israel, sau nhiều thế kỷ đấu tranh chống ngoại xâm và lưu đày, là minh chứng cho các khái niệm cơ bản về sự bình đẳng giữa các quốc gia và của quyền tự quyết. Nghi ngờ quyền của người Do Thái đối với sự tồn vong và tự do của dân tộc không chỉ là từ chối cho người Do Thái quyền lợi mà mọi dân tộc khác trên thế giới đều có mà còn là phủ định những nguyên tắc trọng tâm của Liên Hiệp Quốc.

Bởi vì Chủ nghĩa Do Thái không phải gì hơn là ý niệm của người Do Thái về nguồn gốc và đích đến của họ trên mảnh đất, kết nối vĩnh viễn với cái tên của mảnh đất. Chủ nghĩa Do Thái cũng là phương tiện để dân tộc Do Thái tìm sự tròn đầy chân thực cho chính quốc gia của mình. Và bi kịch đã diễn ra ở khu vực dân tộc Ả Rập có được chủ quyền trong 20 quốc gia, bao gồm cả một trăm triệu người trên một diện tích bốn triệu rưỡi dặm vuông, với tài nguyên phong phú. Do đó, vấn đề không nằm ở chỗ thế giới có đồng thuận với chủ nghĩa quốc gia của Ả Rập hay không. Mà vấn đề là chủ nghĩa quốc gia của Ả rập, với thừa thãi bao la của họ về thuận lợi, giàu có và cơ hội, sẽ chừng nào họ mới chịu đồng thuận với các quyền rất khiêm tốn nhưng bình đẳng của một quốc gia Trung Đông khác để được tiếp tục cuộc sống trong yên ổn và hòa bình.

Lời chỉ trích kịch liệt Chủ nghĩa Do Thái được đại diện của Ả Rập lên tiếng ở đây có thể gây ra ấn tượng sai lầm cho Hội đồng, rằng trong khi phần còn lại của thế giới ủng hộ phong trào độc lập dân tộc cho người Do Thái, thế giới Ả Rập luôn luôn thù địch với Chủ nghĩa Do Thái. Điều đó không đúng. Các vị lãnh đạo của Ả Rập, nhận thức quyền của dân tộc Do Thái, hoàn toàn ủng hộ đạo đức của Chủ nghĩa Do Thái. Ngài Sheriff Hussein, lãnh đạo của thế giới Ả Rập trong suốt thời kỷ Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, đã chào mừng những người Do Thái trở về Palestine. Con của ông, Emir Feisal, là người đại diện cho thế giới Ả Rập ở Hội Nghị Hòa Bình tại Paris đã phát biểu như sau về Chủ nghĩa Do Thái vào ngày 3 Tháng 3 Năm 1919:

“Chúng tôi những người Ả Rập, đặc biệt là những người Ả Rập có giáo dục, nhìn với cảm thông sâu sắc phong trào Phục Quốc của người Do Thái… Chúng tôi sẽ thật tâm cầu chúc họ được chào mừng nồng nhiệt trở về nhà… Chúng ta đang cùng hợp tác với nhau để tái thiết và xem xét lại Vùng Cận Đông, và cả hai cuộc phong trào của chúng ta sẽ bổ sung cho nhau. Phong trào này là phong trào dân tộc chứ không phải phong trào đế quốc. Và ở Syria có đủ chỗ cho cả hai. Thật lòng, tôi nghĩ rằng, nếu thiếu 1 trong 2 phong trào, không có phong trào nào thành công.”

Thời điểm này có lẽ rất thích hợp để nhắc lại rằng vào năm 1947, khi vấn đề Palestin được mang ra tranh luận tại Liên Hiệp Quốc, Liên Bang Sô Viết đã ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh giành độc lập của Người Do Thái. Và đặc biệt liên quan để nhắc lại một số lời nhận xét của Ông Andrei Gromyko vào ngày 14 tháng 05 năm 1947, một năm trước khi chúng tôi độc lập:

“Như tất cả chúng ta đều biết, nguyện vọng của phần lớn người Do Thái gắn liền với vấn đề Palestine và tương lai của chính quyền Palestine. Sự thật này không nhất thiết phải đòi hỏi có bằng chứng… Trong suốt cuộc chiến tranh vừa qua, người Do Thái đã trải qua buồn rầu và đau khổ tận cùng. Không cần phải phóng đại thêm nữa. Nỗi buồn rầu và đau khổ này không thể nào tả xiết. Thật khó để diễn tả chỉ với những con số thống kê khô khan về số lượng nạn nhân Do Thái bị phát xít tấn công. Người Do Thái ờ những vùng đất bị những kẻ đi theo chủ nghĩa Hitler thống trị đã bị gần như hoàn toàn tận diệt. Tổng con số người Do Thái bị hủy diệt trong bàn tay của những đồ tể Đức Quốc Xã được ước tính xấp xỉ 6 triệu…”

“Liên Hiệp Quốc không thể và không được nhìn tình huống một cách lạnh lùng, bởi vì đó là không phù hợp với những nguyên tắc tối cao đã được tuyên bố trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, văn bản tuyên bố các quy định bảo vệ quyền con người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo hoặc giới tính…”

Sự thật là không một Quốc Gia Tây Âu nào có thể đảm bảo việc bảo vệ các quyền cơ bản của dân tộc Do Thái và canh chừng dân tộc Do Thái không bị tấn công bởi những đồ tể phát xít, điều này đã giải thích nguyện vọng của người Do Thái mong muốn được thành lập đất nước của riêng mình. Và sẽ là bất công nếu như không cân nhắc điều này khi xem xét Chủ nghĩa Do Thái và phủ nhận quyền của dân tộc Do Thái được thực hiện nguyện vọng của họ. Đó là lời của Ông Andrei Gromkyo trước phiên họp của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 14 tháng 5 năm 1947.

Thật đáng buồn khi nhìn thấy ở đây một nhóm các quốc gia, trong đó có nhiều nước chỉ vừa mới giải phóng chính mình khỏi chế độ thuộc địa, đã cười chế giễu một trong những phong trào giải phóng đáng khâm phục nhất của thế kỷ này, cuộc phong trào không chỉ mang đến một ví dụ về lòng dũng cảm và quyết tâm của một dân tộc đấu tranh vì độc lập, mà còn tích cực giúp đỡ rất nhiều các quốc gia này trong quá trình chuẩn bị cho độc lập hoặc ngay sau khi họ đã giành được độc lập.

Ở đây quý vị nhìn thấy một phong trào vốn là hiện thân của một tinh thần tiên phong độc nhất vô nhị, của tính cao quý của lao động, và của những giá trị nhân văn bền vững, một phong trào phô diễn trước cả thế giới một ví dụ của công bằng xã hội và dân chủ cởi mở, đã bị lôi kéo vào nghị quyết này với những quan niệm chính trị ghê tởm.

Chúng tôi, ở Israel, đã cố gắng sáng tạo ra một xã hội phấn đấu thực hiện những lý tưởng cao nhất trong xã hội – chính trị, văn hóa và xã hội – cho tất cả những cư dân Israel, bất kể niềm tin tôn giáo, chủng tộc hoặc giới tính. Hãy chỉ ra cho tôi một xã hội đa dạng giống như vậy trong thế giới này, mà ở đó bất chấp tất cả những vấn đề khó khăn trong cuộc sống mà chúng ta đang sống, người Do Thái và người Ả Rập có thể chung sống hòa bình với nhau ở một mức độ hòa hợp mà tại đó phẩm cách và quyền con người được tôn trọng trước pháp luật, tại đó không có án tử hình, tại đó tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do tư tưởng, tự do biểu lộ đều được đảm bảo, tại đó các phong trào, thậm chí đi ngược lại mục tiêu của quốc gia, cũng được có đại diện trong Quốc Hội.

Những người đại diện của Ả Rập nói về phân biệt chủng tộc. Sự thật không nằm trong miệng họ. Điều gì đã xảy ra cho 800,000 người Do Thái sống hơn 2000 năm trên các mảnh đất Ả Rập, những người tạo nên một số cộng đồng cổ xưa nhất rất lâu trước khi Hồi Giáo ra đời? Những cộng đồng đó bây giờ họ ở đâu? Điều gì đã xảy ra với họ, điều gì đã xảy ra với tài sản của họ?

Người Do Thái đã từng là một trong những cộng đồng quan trọng trong các quốc gia ở Trung Đông, những người lãnh đạo tư tưởng, thương mại và y học. Họ ở đâu trong xã hội Ả Rập ngày nay? Quý vị dám nói về phân biệt chủng tộc khi tôi có thể chỉ ra một cách tự hào các Bộ Trưởng Ả Rập đã phục vụ trong nội các của tôi; phó chủ tịch Quốc Hội của tôi; các sĩ quan và cá nhân Ả Rập tình nguyện phục vụ trong các lực lượng quốc phòng, biên phòng và cảnh sát, thường chỉ huy của binh lính Do Thái; hàng trăm ngàn người Ả Rập từ tất cả các nơi ở Trung Đông tụ tập lại ở các thành phố Israel mỗi năm; hàng ngàn người Ả Rập từ tất cả các nơi ở Trung Đông đến Israel để trị bệnh mỗi năm; sự sống chung hòa bình đã phát triển; sự thật là tiếng Ả Rập là một ngôn ngữ chính thức ở Israel ngang hàng với tiếng Do Thái; sự thật là ở Israel một người Ả Rập phục vụ trong các chức vụ nhà nước là chuyện rất tự nhiên, trong khi thật là kỳ dị để nghĩ đến chuyện một người Do Thái phục vụ trong một văn phòng nhà nước tại bất kỳ nước Ả Rập nào, sự thật được thú nhận với nhiều người. Vậy đó là phân biệt chủng tộc? Không. Đó là Chủ nghĩa Do Thái.

Đó là nỗ lực của chúng tôi để xây dựng một xã hội, dù là không toàn hảo – và xã hội nào mà hoàn hảo? – nơi tầm nhìn của các nhà tiên tri Do Thái sẽ được hiện thực hóa. Tôi biết rằng chúng tôi có nhiều vấn đề. Tôi biết rằng nhiều người bất đồng với chính sách của Nhà nước. Và nhiều người ở Israel thỉnh thoảng cũng bất đồng với chính sách của nhà nước, và họ được tự do bất đồng ý, bởi vì Chủ nghĩa Do Thái đã tạo ra nhà nước dân chủ thực sự đầu tiên và duy nhất tại một vùng của thế giới vốn chưa bao giờ biết đến dân chủ và tự do ngôn luận thực sự.

Bản nghị quyết có dã tâm này, được thiết kế để lái chúng ta ra khỏi mục đích thật sự của nó, là một phần của thành ngữ bài Do Thái nguy hiểm được mang ra ám chỉ trong tất cả các cuộc tranh luận công khai bởi những người đã thề ngăn chặn bước chuyển giúp hướng đến những nhường nhịn và cuối cùng là hướng về hòa bình ở Trung Đông. Hành động này, cùng với những hành động khác, được gây ra để hủy hoại những nỗ lực của Hội Nghị Geneva về hòa bình ở Trung Đông.

Chúng ta nhìn thấy ở đây hôm nay không gì ngoài một biểu hiện khác của hận thù cay đắng chống Do Thái và chống người Do Thái vốn kích động cả xã hội Ả Rập. Ai có thể tin rằng vào năm 1975 chính Nhà Nước các nước Ả Rập đã chính thức tung ra những dối trá gian ác của “Elders of Zion”? Ai có thể tin rằng chúng ta hôm nay nhìn thấy một xã hội Ả Rập dạy dỗ lòng thù hận chống Do Thái hèn hạ nhất trong cả các lớp mẫu giáo? Ai có thể tin rằng Người Đứng Đầu Nhà Nước Ả Rập sẽ cảm thấy có trách nhiệm phải nuông chiều một cách công khai chủ nghĩa chống Do Thái rẻ tiền nhất khi thăm viếng một quốc gia bạn? Chúng tôi đang bị tấn công bởi một xã hội kích động bởi hình thức của chủ nghĩa kỳ thị cực đoan nhất trên thế giới ngày nay. Đây là chủ nghĩa kỳ thị được thể hiện cô đọng trong mấy chữ của lãnh đạo Tổ Chức Giải Phóng Palestine (Palestine Liberation Organization – PLO), Yasser Arafat, trong bài diễn văn khai mạc tại hội nghị tại Tripoli, Libya, và tôi trích dẫn dưới đây:

“Sẽ không có sự hiện diện nào khác trong khu vực ngoại trừ sự hiện diện của Ả Rập”.

Nói cách khác, ở Trung Đông, từ Đại Tây Dương đến Vịnh Ba Tư, chỉ có một sự hiện diện được cho phép, và đó là sự hiện diện của Ả Rập. Không một dân tộc nào khác, bất chấp nguồn gốc của họ trong khu vực sâu xa đến đâu đi nữa, được phép tận hưởng quyền tự quyết của mình.

Hãy nhìn số phận bi thảm của người Kurds ở Iraq. Hãy nhìn những gì đã xảy ra với cộng đồng người da đen ở miền nam Sudan. Hãy nhìn hoàn cảnh nguy hiểm tàn khốc mà toàn thể cộng đồng Tin Lành ở Lebanon rơi vào. Hãy nhìn vào chính sách đã được tuyên thệ của PLO, trong Lời Hứa Palestine của họ, đã kêu gọi tiêu diệt Nhà nước Israel, phủ nhận bất cứ hình thức thỏa hiệp nào đối với vấn đề Palestine, và, theo như lời của người đại diện Palestine phát biểu ngày hôm kia tại nơi đây, xem Tel Aviv như phần đất của họ đang bị chiếm đóng. Hãy nhìn lại tất cả mọi thứ này và quý vị và các bạn sẽ thấy trước mắt mình cái gốc rễ nguyên nhân của bản nghị quyết đầy ác ý đang được mang ra trước Hội đồng. Quý vị các bạn sẽ thấy 2 tội ác song sinh của thế giới này đang làm việc: sự hận thù mù quáng của các thành viên Ả Rập ủng hộ bản nghị quyết này, và sự ngu dốt và dữ dằn vô đáy của những người ủng hộ họ.

Vấn đề đặt ra trước Đại Hội Đồng không phải là nước Do Thái và không phải là Chủ nghĩa Do Thái. Vấn đề là số phận của Tổ chức này. Thai nghén từ tinh thần của những nhà tiên tri Do Thái, sinh ra từ liên minh chống lại Đức Quốc Xã sau bi kịch của Thế Chiến thứ 2, Tổ Chức này đã ngày càng thoái hóa thành một diễn đàn mà mới tuần rồi đã được miêu tả bởi một trong những tác giả hàng đầu trong một cơ quan tối cao của luồng tư tưởng cấp tiến và xã hội phương Tây, và tôi trích dẫn dưới đây:

“nhanh chóng trở thành một trong những tạo vật thối nát nhất trong toàn bộ lịch sử các tổ chức của loài người… hầu như luôn luôn là những người đa số đến từ những quốc gia nổi tiếng về áp bức chủng tộc dưới đủ mọi màu sắc mà người ta có thể tưởng tượng…”

“Israel là một nước dân chủ xã hội,…

 … dân tộc và nhà nước Israel cực kỳ tôn trọng đời sống của con người, tha thiết đến mức mặc dù nhận thức được rất nhiều khiêu khích vẫn từ chối trong cả phần tư thế kỷ không tiến hành cho dù chỉ một cuộc tử hình một kẻ khủng bố. Họ còn sở hữu một nền văn hóa cổ xưa nhưng mạnh mẽ và một nền công nghệ thịnh vượng. Sự kết hợp các đặc tính dân tộc họ đã thu thập được trong thời gian ngắn tồn tại như một quốc gia độc lập là sự hổ thẹn cay đắng và vĩnh viễn đối với phần lớn các quốc gia mới thành lập mà đại diện của họ vênh váo lòng vòng trong tòa nhà Liên Hiệp Quốc. Vì vậy Israel bị đố kỵ và thù ghét, và nhiều cố gắng đã được thực hiện để tiêu diệt Israel. Sự triệt tiêu Israel đã từ lâu là mục tiêu cơ bản của khủng bố quốc tế; họ tính toán rằng nếu họ hạ gục Israel thì toàn bộ nền văn minh còn lại sẽ dễ dàng bị họ tấn công.

Và rồi tác giả đi đến kết luận:

“Sự thật đau buồn, tôi lo sợ, là ngọn nến văn minh đang cháy cạn dần. Thế giới ngày càng bị cai trị, không hẳn là bởi chủ nghĩa tư bản, hay chủ nghĩa cộng sản, hay dân chủ xã hội, hay ngay cả bởi chủ nghĩa man rợ của bộ lạc thiểu số, mà bởi sáo ngữ chính trị giả dối, tích tụ hơn nửa thế kỷ và hiện đang mang một hình thức thần quyền hư nát… Chúng ta đều biết chúng là gì…

Qua bao thế kỷ, số phận của dân tộc tôi đã là thành tố kiểm tra cho nhân tính, nền móng của văn minh nhân loại, lò rèn thử thách những giá trị tồn tại bền vững của con người. Mức độ nhân văn của một quốc gia luôn luôn có thể được đánh giá qua tác phong của quốc gia đó đối với kiều dân Do Thái trong quốc gia đó. Lúc nào cũng bắt đầu với người Do Thái nhưng không bao giờ kết thúc với Do Thái.

Các cuộc tàn sát Do Thái dưới thời Sa hoàng Nga chỉ là phần nổi của tảng băng cho thấy sự thối rữa vốn có của một chế độ nhanh chóng biến mất trong bão táp cách mạng. Sự bài bác Do Thái quá đáng của Đức Quốc xã chỉ là điềm báo trước thảm họa sẽ xảy ra đối với tất cả nhân loại ở châu Âu.

Bản nghị quyết tinh vi này phải gióng lên tiếng còi báo động đối với mọi người tử tế trên thế giới. Dân tộc Do Thái, với vai trò là nhân tố thử nghiệm, tiếc thay đã không bao giờ sai. Những điều hiểu ngầm có sẵn trong nước cờ đáng xấu hổ này thật là kinh khủng.

Về vấn đề đã nêu, thế giới với các đại diện các quốc gia trong khán phòng này đã tự phân chia thành hai nửa, nửa tốt nửa xấu, nửa tử tế nửa độc ác, nữa đầy tính nhân văn nửa đê hèn. Chúng tôi, dân tộc Do Thái, sẽ nhớ lại sự biết ơn của chúng tôi đối với các quốc gia đã đứng lên và được biết đến, và từ chối cho bản nghị quyết tồi tệ này. Tôi biết rằng giai đoạn này sẽ củng cố các lực lượng của tự do và đứng đắn trên thế giới và sẽ làm họ mạnh mẽ hơn trong quyết tâm củng cố những lý tưởng mà họ yêu quý. Tôi biết rằng giai đoạn này sẽ củng cố Chủ Nghĩa Do Thái cũng như nó đã làm suy yếu Liên Hiệp Quốc.

Khi tôi đứng trên bục diễn thuyết này, lịch sử lâu dài và đáng tự hào của dân tộc tôi trải ra trước con mắt nội tâm tôi, tôi nhìn thấy những kẻ đàn áp dân tộc tôi qua bao niên đại tiếp nối nhau trong đoàn rước ác ôn đi vào quên lãng. Tôi đứng đây trước quý vị là người đại diện của một dân tộc mạnh mẽ và thịnh vượng đã sống sót qua tất cả và sẽ sống sót qua khỏi cuộc triển lãm đáng xấu hổ này cũng như những thành viên của bản nghị quyết này. Tôi đứng đây là đại diện của một dân tộc mà một trong những nhà tiên tri của chúng tôi đã mang đến cho thế giới này lời tiên tri hùng vĩ đã kích động những người sáng lập ra tổ chức thế giới này và làm duyên cho cổng ra vào của tòa nhà này:

“… nước này không được nâng cao lưỡi gươm chống đối lại nước kia, cũng như không được học chiến tranh nữa.” (Isaiah ii, 4)

Ba câu trước đó, Nhà Tiên Tri Isaiah đã tuyên phán,

“Và trong những ngày cuối cùng… từ Zion luật sẽ tiến ra, và từ Jerusalem lời của Thượng Đế sẽ tiến ra.” (Isaiah, ii, 2 và 3)

Khi tôi đứng trên bục diễn thuyết này, những giây phút vĩ đại của lịch sử Do Thái đã xuất hiện trong đầu tôi khi tôi đối diện với quý vị, một lần nữa là thiểu số đối với quý vị và có thể là nạn nhân của thù hận, ngu dốt và tội ác. Tôi nhìn lại những giây phút vĩ đại đó. Tôi nhớ lại sự vĩ đại của đất nước mà tôi có vinh dự được đại diện trong diễn đàn này. Tôi nghĩ đến, tại giây phút này, tất cả mọi người Do Thái trên khắp thế giới, dù họ có thể ở nơi nào, tự do hay nô lệ, với những lời cầu nguyện và suy nghĩ của họ ở với tôi trong giây phút này.

Tôi đứng đây không phải là một người đang van xin quý vị. Hãy bỏ phiếu theo đúng lương tâm quý vị đòi hỏi quý vị. Vì vấn đề không phải là nước Do Thái và Chủ nghĩa Do Thái. Vấn đề là sự tồn tại tiếp tục của Tổ chức đã bị kéo xuống đến mức thấp nhất của uy tín, bởi một liên minh chuyên chế và kỳ thị chủng tộc.

Lá phiếu của mỗi quốc gia sẽ được ghi nhận trong lịch sử vị thế của quốc gia đó về chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc chống người và chống Đạo Do Thái. Chính quý vị chịu trách nhiệm cho vị thế của mình trước lịch sử, vì người ta sẽ nhìn vào quý vị trong lịch sử như thế. Nhưng chúng tôi, dân tộc Do Thái, sẽ không quên.

Đối với chúng tôi, dân tộc Do Thái, đây chỉ một giai đoạn thoáng qua trong một lịch sử phong phú và tràn ngập sự kiện. Chúng tôi đặt lòng tin của mình vào Thượng Đế của chúng tôi, vào lòng tin và đức tin của mình, vào truyền thống thiêng liêng lâu đời của chúng tôi, vào nỗ lực của chúng tôi vì tiến bộ xã hội và các giá trị nhân văn, vào chính dân tộc mình cho dù họ ở đâu. Đối với chúng tôi, dân tộc Do Thái, bản nghị quyết này, dựa trên lòng thù hận, dối trá và kiêu căng, hoàn toàn không có một giá trị đạo đức hay pháp lý nào. Đối với chúng tôi, dân tộc Do Thái, đây chẳng là gì ngoài một miếng giấy lộn, và chúng tôi sẽ đối xử với nó đúng như thế.

THÔNG TIN VỀ BÀI VIẾT TRÊN

+ Tác giả: Chaim Herzog

+ Người dịch: Phạm Hồng Quyên

+ Nơi đăng: Trang web "Đọt chuối non"

+ Ngày đăng: 16/03/2012

+ Trích đăng từ Nguồn bài: https://dotchuoinon.com/2012/03/16/cac-di%E1%BB%85n-van-lam-thay-d%E1%BB%95i-th%E1%BA%BF-gi%E1%BB%9Bi-hai-t%E1%BB%99i-ac-l%E1%BB%9Bn-h%E1%BA%ADn-thu-va-ngu-d%E1%BB%91t-chaim-herzog-1975/

 

______________________________
Bài viết này được sưu tầm
và biên tập bởi một Nhóm IPLer của
Học bổng Lãnh đạo Khai phóng IPL Khóa 5

Đinh Hải Đăng
Trương Nguyễn Nhật Hoàng
Trần Thị Thảo Phương
Lê Chiêu Trung
Đặng Phương Uyên
Trần Thị Hồng Xuyến