Nguồn ảnh: www.centreofexcellence.com
Nói triết học thì ai cũng nghĩ đến một môn học nghiêm trang, cao kỳ, huyền bí, bàn những sự cao xa, xét những nhẽ thâm thúy, người thường không thể hiểu được. Lắm người chỉ nghe đến tên triết học mà sợ, tưởng như cái yêu thuật của một bọn hư tưởng dùng để huyễn diệu người đời. Bởi nhiều người tưởng nhầm về triết học như thế, nên triết học đã hầu coi như một món có quan thiết gì đến sự thực, đến việc đời, mà nhà triết học, nhà thuyết lý đã thành danh là những người sống trong mộng vậy. Nhưng mấy người hiểu rõ mục đích của triết học là gì, cái phương pháp của triết học thế nào, cùng bởi sao mà triết học là một sự học ích lợi thiết yếu cho người ta. Vậy trước khi bàn đến những vấn đề về triết học, tưởng nên giải nghĩa triết học là gì. Đó là cái mục đích của bài này.
Các nhà triết học từ xưa đến nay đã giải nghĩa chữ triết học ra nhiều cách lắm, nếu thuật lại cả thì một quyển sách cũng không hết được. Nhưng trong bấy nhiêu nghĩa tất có một cái gốc chung; Ta nên tìm mà biểu cái gốc chung ấy ra, tức cũng đủ tạm giải được triết học là gì.
Phàm nói triết học là nghĩ ngay đến một sự học chung, chủ cái đại thể, đại khái. Vậy xét một từng thứ nhất thì có thể giải triết học là sự nghiên cứu những nhẽ chung, những sự đại khái.
Nhưng mà những nhẽ chung, những sự đại khái ấy không có rõ cho ta trông thấy ngay được. Thường nó lại phản trái hẳn với cái hiện tượng bề ngoài. Vậy phàm học triết học là phải nghiên cứu cho sâu, mới phát minh được những nhẽ chung, những sự đại khái ấy.
Như học lịch sử: lấy cái thiển kiến mà xét thì lịch sử bất quá là một mớ lộn nhộn những công việc của người từng người. Nhưng lấy cái nhỡn tuyến nhà triết học mà xét, thì biết những công việc của người đời trước cũng chưa đủ, phải coi mỗi việc như một cái máy mà nó tháo ra từng mảnh, tìm xem cái cơ quan nó thế nào, cách nó vận động làm sao, cái tâm lý của người chủ động, cái tình thế lúc khởi hành. Nhà triết học lấy những hiện tượng bề ngoài là cái biểu diện của những phép tắc sâu xa, nên thường phải nhìn qua cái hiện tượng ở ngoài mới thấu được phép tắc ở trong. Bởi vậy mà ông PLATON ngày xưa nói triết học là sự học cái vô hình, ông ARISTOTE thì giải triết học là sự nghiên cứu những “cứu cánh nguyên lý” cùng những “tối hậu nguyên nhân” (recherche des premiers principes et des dernières causes).
Những sự của triết học đã là siêu việt ra ngoài hiện tượng trông thấy, thì không có thể tự nhiên mà biết được. Phải có suy nghĩ mới lý hội được. Nên xưa nay sự suy nghĩ vẫn cho là cái phương pháp tất yếu của triết học, mà cả triết học cũng thường giải là một sự suy nghĩ về sự vật vậy.
Vậy thì học triết học là phải khái niệm để gồm lấy những sự đại khái, nghiên cứu để tỏ ra những nhẽ sâu xa, suy nghĩ để hội lấy những mối siêu việt. Nhưng cớ sao mà phải khái niệm, nghiên cứu, suy nghĩ như thế? Là bởi loài người ta có một cái bản tính khởi điệm tự các giống cao đẳng động vật, cái bản tính ấy là cái tính hiếu biết vậy. Người ta đứng trước cảnh vật không chịu giữ cái địa vị khách quan. Phàm trông thấy cái gì, cũng muốn giải nghĩa nó thế nào. Nhìn không chưa đủ: muốn hiểu xem cớ sao mà mình nhìn nó ra như thế. Vậy thì cứu cánh mục đích của sự triết học là muốn thuyết minh về sự vật.
Khái niệm, nghiên cứu, suy nghĩ, thuyết minh, đó là bốn điều chính của sự triết học. Nhưng mà xét kỹ ra bốn điều ấy cũng còn chưa được phân minh lắm. Các nhà triết học Âu châu đời xưa đã nói rằng: Phàm muốn định nghĩa một sự một vật cho hoàn toàn thì thứ nhất là phải định được khắp cái nghĩa của sự vật ấy, thứ nhì là phải cho cái nghĩa định ấy chỉ hợp với cái sự cái vật mình định nghĩa mà thôi. Thế thì như ta định nghĩa chữ triết học trên kia mới là trúng được một phần thứ nhất, mà còn chưa đúng với phần thứ nhì. Vì không một là triết học, phàm khoa học gì chẳng là phải suy nghĩ, chẳng là phải khái niệm, chẳng là phải thuyết minh mà chẳng là phải nghiên cứu? Hay là triết học với khoa học cũng giống nhau? Hay là cái định nghĩa của ta rộng quá?
Ở Âu châu, kể từ đời cổ đại cho đến cuối thế kỷ thứ 15, triết học với khoa học vẫn thường gồm làm một. Về đời Hi lạp cùng về đời Trung cổ, triết học với khoa học không có phân biệt nhau bao giờ. Tự đời Cổ học phục hưng (Renaissance)[1], nhất là từ ông DESCARTES[2], thì triết học tức là khoa học ngày nay, cái mục đích, cái tôn chỉ, cái phương pháp cũng thế. Cái phương pháp của ông DESCARTES cũng như cái thực nghiệm phương pháp ngày nay, chủ sự hỗn hợp cả khoa học cùng triết học.
Dù vậy mà nếu xét kỹ ra thì từ khi triết học Hi lạp mới khởi điểm, trong tư tưởng giới Âu châu đã thấy phát hiện ra hai cái phương hướng khác nhau.
Một bên thì thấy những môn học chỉ chủ xét một vấn đề riêng, mà muốn xét cho khắp, tìm cho hết nhẽ, dùng đủ mọi phương pháp mà giải cho cực đúng. Chắc rằng cái vấn đề nào dù đặc biệt đến đâu, cũng tất nhiên là phải có một cái kết luận, mà cái kết luận ấy tất nhiên cũng là một kết luận chung. Vì giải quyết được một cái vấn đề nào, tức là có thể suy loại mà giải quyết được cả những vấn đề cùng một họ với nó. Nhưng cả cái họ ấy nữa cũng mới chỉ là một bộ phận nho nhỏ trong toàn thể những sự những vật nó khêu giục cái lòng ham biết của người ta. Cả cái họ ấy cũng là chìm đắm trong cảnh vật mênh mông, gồm không biết hằng hà sa số nào là những họ khác nữa.
Bởi thế mà một bên nữa lại thấy những nhà học vấn quay về một phương hướng khác, như con bướm bay về nơi ánh sáng vậy. Cái ánh sáng này là cái ánh sáng thấu suốt cả toàn thể sự vật. Không muốn nghiên cứu riêng một vấn đề như trên kia, mà muốn lý hội, muốn giải nghĩa được cả toàn thể của Vũ trụ; không muốn xét một sự, một vật, một thể cách riêng của sự vật, mà muốn gồm hết thẩy các sự vật, thấu được cái bản thể của cả vạn vật.
Cái phương diện trên là cái phương diện của khoa học, mà khoa học đối với sự thực thì ví như người thợ mỏ cuốc đống quặng rắn, làm khó nhọc mà chỉ được từng mảnh con con. Cái phương diện dưới là cái phương diện của triết học, mà ví như nhà kỹ sư đứng ngắm hình thể một trái núi để đoán định cái mạch mỏ cùng lượng biết cái giá trị của nó. Hai phương diện rộng hẹp thực là khác nhau vậy.
Người Hi lạp ngày xưa cũng đã từng phân biệt rõ ràng hai phương diện ấy rồi. Ngày nay sự phân biệt ấy lại hiển nhiên hơn nữa. Cái phạm vi của khoa học là cái phạm vi những sự thực nghiệm; cái phạm vi của triết học là cái phạm vi những sự lý tưởng, siêu việt, vô hình; hai bờ cõi thật là phân minh mà không thể lẫn lộn được. Một bên thì là những sự kết quả nhỏ nhặt, nhưng bao giờ cũng có kiểm điểm kỹ càng, những sự nghiên cứu có phép tắc mà đúng mực, nhất là có liên tiếp với nhau, cái gì thử đã chắc rồi mới giữ mà dùng như hòn đá nền để lại xây hòn khác lên trên. Một bên thì dùng sự suy ức, sự tưởng tượng để muốn bước nhanh hơn những sự nghiên cứu tỉ mỉ, mà xướng được ngay nhời kết luận về các nguyên nhân, cái cứu cánh của vạn vật
Vậy thì nói tóm cả từ đầu có thể giải nghĩa triết học đối với khoa học là nghiên cứu những sự đại khái rất siêu việt, những cái đại nghĩa rất cao thâm, rất xa cách với những hiện tượng bề ngoài. Hay là giải nghĩa thế này nữa, vừa giản dị hơn lại vừa không sợ hoặc rộng quá hoặc hẹp quá, là nói rằng: triết học đối với khoa học, cái tỉ lệ cũng tức như là khoa học đối với sự tri thức tầm thường vậy.
Nếu khoa học là nghiên cứu nghĩa chung, thì triết học lại là nghiên cứu cái nghĩa chung hơn hết cả. Nếu khoa học là nghiên cứu cái hiện tượng bề ngoài, thì triết học là nghiên cứu cái chân tướng ở trong. Nếu khoa học lấy sự suy nghĩ mà thay vào sự tự nhiên, thì triết học là lấy sự suy nghĩ mà suy nghĩ cái suy nghĩ của khoa học. Nếu khoa học là muốn giải nghĩa sự vật, thì triết học lại muốn giải nghĩa cao hơn, mà giải nghĩa cả khoa học nữa. Chắc rằng thích nghĩa chữ triết học như thế cũng chưa được là rất mực đích xác, chưa được là cực điểm phân minh, như hai với hai là bốn vậy. Nhưng thiết tưởng cũng đã định được cái phạm vi của triết học đối với khoa học, khu biệt được phần nào là phần thuộc về triết học, phần nào là phần thuộc về khoa học, không sợ nhận nhầm; như thế thì cũng là tạm đủ vậy.
Nói tổng kết lại thì phàm sự học không muốn khu vào trong một vòng những sự thực nhất định, cách biệt cái nọ với cái kia, mà muốn thuyết minh về toàn thể của sự vật, hoặc là về một bộ phận nữa nhưng cũng là chủ lấy cái toàn thể làm mục đích, phàm sự học như thế là thuộc về triết học cả.
Đương buổi cái phong trào chuyên môn của các khoa học thịnh hành như ngày nay, triết học lại rất là cần lắm. Mỗi người chuyên một môn học, vụ lấy học cho cực sâu, cái đó cũng có hay mà cũng có dở. Hay là vì ngày nay các khoa học mỗi ngày một nhiều, một đời người không thể học được suốt, tất phải chia ra mà học mới thành nghề mà sự học mới tiến bộ được. Dở là vì các nhà chuyên môn tất chỉ tinh một môn học của mình, tri thức như hạn chế trong một cái phạm vi nhất định, phàm quan sát sự vật hay lấy cái phương diện riêng của môn học mình làm chuẩn, sự học tuy có sâu mà không được rộng. Vậy cần phải có một sự học chủ cái quát cả các môn học riêng mà trừu lấy cái đại nghĩa chung, thu cả các nhẽ nhỏ mà họp lại thành một cái quan niệm nhớn về thế giới về loài người: sự học ấy là triết học vậy.
Thế giới ví như một cái cảnh nhớn, có núi có nước, có cây cỏ rừng, có hang hốc, có suối khe, có chim kêu vượn hót, có gió thổi nước bay, trăm nghìn vẻ kỳ kỳ lạ lạ. Đi len lỏi vào những nơi rừng rậm hang sâu để xét từng hòn đá, ngắm từng cái cây, ấy là nhà khoa học chuyên môn. Trèo chót vót lên trên đỉnh núi cao, ngửng lên cúi xuống, ngắm nghía bốn bề, để thu lấy cái đại thể một mảnh giang sơn trong giời đất, ấy là nhà triết học. Chắc đứng cao mà trông thì tường sao được bằng người bước đến tận nơi mà nhìn, nhưng cái nhỡn giới mênh mông biết chừng nào! Phàm người cao thượng khao khát những sự tuyết đích thì cảnh tượng ấy không phải là không có một cái thú lạ.
Chú thích/Tài liệu tham khảo:
Nguồn: Phạm Quỳnh, “Triết học là gì?”. In trong Nam Phong Tạp chí, số 02, năm 1917, tr. 97-100. Bản điện tử do triethoc.edu.vn thực hiện.
[1] “Cổ học phục hưng” là một thời kỳ trong lịch sử Âu châu, gồm hai thế kỷ thứ 15 và 16, các nước Âu châu lúc bấy giờ hết đời Phong kiến (Féodalité) lại giở về học thuật của Hi lạp La mã.
[2] Tạm dịch là [... chữ Hán ...]. Ông tổ triết học nước Pháp 1596-1950. (Bản in bị nhầm, đúng ra phải là 1596-1650, - chú thích của triethoc.edu.vn)
Chương trình Lãnh đạo Khai phóng IPL khóa 5
Thân Tiến Toàn
Nguyễn Văn Hưng
Nguyễn Ngọc Thùy Trâm
Lộc Quỳnh Như
Phan Hoàng Ngân
Lê Quang Minh