Trong nghệ thuật hiện đại tồn tại một loại quan niệm: “Nghệ thuật là chủ quan, không có tiêu chuẩn tuyệt đối tốt và xấu”, gắn liền cùng với nó là hệ tư tưởng: “Sáng tác nghệ thuật là tự do, không nên chịu ước thúc bởi điều gì”. Điều đó liệu có đúng?

BVST18063-THANG-HOA-TRONG-NGHE-THUAT-P-2-1.jpg

Phẩm chất và tu dưỡng của tác giả sẽ phản ánh trong tác phẩm. (Ảnh: Internet)

Người sáng tác có nhân phẩm như thế nào?

Đề tài nghệ thuật có phù hợp hay không?

Kỹ xảo nghệ thuật có biểu hiện được mỹ đức hay không?

Loại nghệ thuật nào có thể khiến người ta thăng hoa, tịnh hóa, đạo đức nâng cao trở lại?

1. AI SÁNG TÁC?

Tác giả là trung tâm của sáng tác nghệ thuật, trạng thái tự nhiên của bản thân họ là cực kỳ mấu chốt. Đầu tiên, phẩm chất và tu dưỡng của tác giả sẽ phản ánh trong tác phẩm. Có câu: “Họa như kỳ nhân”(bức tranh ví như người). Liễu Công Quyền từng nói “tâm chính tắc bút chính”.

Khi so sánh kiểu chữ của Nhan Chân Khanh và Tống Huy Tông, người trước đoan chính trung hậu, vừa khớp với miêu tả “Lập triêu chính sắc, cương nhi hữu lễ” đối với Nhan Chân Khanh trong lịch sử. Còn người sau tuy rằng phóng khoáng tuấn tú, nhưng sắc sảo khác người, lại có thái độ phong lưu ngả ngớn, tính cách văn nghệ sĩ này hiển nhiên không thích hợp làm vua của một nước.

So sánh chữ viết của Nhan Chân Khanh và Tống Huy Tông (Ảnh: Internet)

So sánh chữ viết của Nhan Chân Khanh và Tống Huy Tông (Ảnh: Internet)

Lại như tác phẩm âm nhạc của Mozart và Beethoven, tựa như hai tính cách người hoàn toàn khác nhau, một cái hồn nhiên vui sướng, thanh khiết thuần mỹ; một cái khí thế hùng hồn, rộng rãi quang minh.

Tiếp theo, văn nghệ sĩ sáng tác thì lập tức tâm tính và tình cảm sẽ trực tiếp biểu lộ trên tác phẩm. Như bài thơ “Hoàng châu hàn thực thiếp” của Tô Thức, khi tác giả bị giáng chức ở Hàng Châu, trong tết hàn thực thời tiết xấu mà ốm bệnh, tâm lại vương vấn triều đình, là có tâm trạng; nét bút như trầm bổng theo tâm tình, một tấm lòng và ý chí nhiệt tình nhưng đầy khó khăn của Tô Đông Pha tựa như hiện rõ rành rành trước mắt.

“Hoàng Châu hàn thực thiếp” của Tô Thức (Ảnh: Internet)

Lại như “Tế chất cảo” của Nhan Chân Khanh, là bài tế cháu Nhan Quý Minh – con của Nhan Cảo Khanh, cùng chết với cha trong loạn An Sử bởi tay An Lộc Sơn.

Lúc đầu văn chương ngưng đọng, đến tình cảm xúc động phẫn nộ tăng dần lên, nét bút nhanh hơn, từ đó về sau thế bút dần dần thoải mái, cuối cùng gần như tùy ý vẽ loạn, không thành hàng lối; niềm tiếc thương người thân cùng nỗi phẫn hận kẻ gian nịnh phản đồ bừng bừng trên giấy.

“Tế chất cảo” của Nhan Chân Khanh (Ảnh: Internet)

Raphael là một trong những bậc thầy vĩ đại của thời kỳ văn hóa phục hưng. Hình ảnh mà Raphael khắc họa trong các bức vẽ “Đức mẹ Đồng trinh” lừng danh đã đi vào lịch sử hội họa như tạo vật dịu hiền, trinh bạch, thuần khiết. Nhưng mà Raphael bản thân mình lại mang ít nhiều thất tình lục dục, vậy nên có rất nhiều hình ảnh mang vẻ dung tục.

Đức mẹ Đồng trinh và Chân dung Fornariana (Ảnh: Internet)

Đức mẹ Đồng trinh và Chân dung Fornariana (Ảnh: Internet)

Thái độ sáng tác: Tại Trung Quốc cổ đại, họa sĩ đem tu dưỡng và sáng tác hợp nhất lại, cho rằng trạng thái tinh thần khi sáng tác ảnh hưởng trực tiếp đến tác phẩm.

 

2. SÁNG TÁC ĐỂ LÀM GÌ?

Đề tài nghệ thuật sẽ ảnh hưởng đến bản thân văn nghệ sĩ. Vì trung thực chính là biểu hiện của đề tài, họa sĩ thường thường dụng tâm đi lý giải, đi bắt chước, không nguyện ý xuất thần trong đó.

Ví như vẽ Thần khi tâm tính trong sáng thì thần thánh, vẽ ma quỷ khi tâm tính hung tàn, bộ mặt dữ tợn. Vẽ núi cao biển rộng khi lòng dạ siêu nhiên rộng rãi; vẽ thôn quê điền viên khi tâm bình thản nhàn nhã; vẽ mỹ nữ khi đa tình trìu mến, vẽ bi kịch khi trầm trọng nghiêm túc… Nói cách khác, đề tài tốt đẹp hay không chính là chịu ảnh hưởng của trạng thái tinh thần tác giả, nếu thường xuyên mô tả đề tài tiêu cực, thì có thể đối với người nghệ sĩ sẽ sinh ra hậu quả không tốt.

Ví như họa sĩ chủ nghĩa lãng mạn người Pháp Théodore Géricault, vì mô tả tác phẩm “Chiếc bè của chiến thuyền Méduse”, ông đã đến các nhà xác và bệnh viện, nơi ông có thể quan sát rõ màu sắc và kết cấu của thịt của người sắp chết và đã chết. Không lâu sau xuất hiện tinh thần hao tổn, thân thể cũng ngày càng sa sút. Trong thời gian đó ông lại vẽ rất nhiều bức tranh về người bị bệnh tâm thần, cuối cùng ông phải chết trong đau đớn sau tai nạn cưỡi ngựa ngoài ý muốn.

Họa sĩ Goya người Tây Ban Nha được mệnh danh là người khổng lồ u uất, những bức tranh của ông có thể khiến người xem cười chua chát, khóc lặng thầm, giận dữ, thậm chí sợ hãi vì sự kỳ bí và điên rồ của chúng. Bút pháp và sắc thái tối tăm, họa sĩ cuối cùng bị ảo ảnh trong bóng ma dây dưa suốt quãng đời còn lại.

Tác phẩm

Tác phẩm “Chiếc bè của chiến thuyền Méduse” của họa sĩ người Pháp Théodore Géricault. (Ảnh: Wikipedia)

Còn có một số văn nghệ sĩ hiện đại vì tìm linh cảm mà hít thuốc phiện, phóng túng dục vọng… Nội dung bức tranh cũng suy sút, u ám. Kết quả sự việc biến chuyển liên tục ngày càng xấu, rất nhiều văn nghệ sĩ trạng thái thể xác và tinh thần cũng không khỏe mạnh, thậm chí hít thuốc phiện tử vong như Basquiat.

Đề tài nghệ thuật và nội dung cũng ảnh hưởng đến người xem. Cổ nhân nói “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, người ta tiếp xúc đến cái gì, trong đầu liền không tự chủ mà tiến đến cái đó. Đặc biệt nếu sau khi trường kỳ tiếp xúc, lại càng dễ hấp thu, đồng hóa, tập mãi thành quen.

Cho nên: “Cùng người tốt ở chung như vào nhà trồng hoa lan, lâu ngày mà chẳng nghe mùi thơm tức là cùng nó thay đổi rồi; cùng ở với người xấu như vào cửa hàng cá ươn nhưng chẳng nghe mùi hôi, tức là cũng cùng nó thay đổi rồi”. Hơn nữa sức cuốn hút của nghệ thuật lớn mạnh, người xem mưa dầm thấm đất mà không nhận thức được, dễ dàng xuất hiện hiệu ứng bắt chước.

Ví dụ sau một đợt điện ảnh Mỹ quốc thịnh hành bạo lực, nạn nổ súng bắn phá lạm sát trong trường học tăng nhiều; rất nhiều tội phạm quấy rối tình dục là bởi vì xem phim khiêu dâm nhiều, không khống chế được dục vọng của mình. Nếu nghệ thuật bày ra đều là những giá trị bất chính tình dục, bạo lực, biến thái…, đối với nếp sống xã hội tất nhiên có tác dụng tiêu cực.

Hành vi suy nghĩ tốt sẽ mang đến hiệu ứng tích cực, những ví dụ như vậy trong thực tế cuộc sống có rất nhiều. Trong “nghiên cứu sinh mệnh” đưa ra một thí nghiệm cho thấy việc chứng kiến người khác làm việc thiện mà cảm động sâu sắc, trong tương lai cũng có thể làm việc thiện như vậy.

Bức bích họa “Phán xét cuối cùng” (Last Judgement) của họa sĩ Michelangelo gây chấn động đối với nhiều người. (Ảnh: Internet)

Bức bích họa “Phán xét cuối cùng” (Last Judgement) của họa sĩ Michelangelo

 làm thức tỉnh lòng người. (Ảnh: Internet)

Nghệ thuật có thể thiện hóa lòng người, là một thực tế không thể chối cãi, như âm nhạc thanh khiết thuần mỹ của Mozart chẳng những có hiệu quả trị liệu, còn có thể làm giảm bớt tội phạm. Ngày bức bích họa “Phán xét cuối cùng” (Last Judgement) của họa sĩ Michelangelo hoàn thành, Giáo Hoàng chứng kiến ngày phán xét nghiêm khắc vô tình thì không chịu nổi bèn quỳ xuống cầu nguyện: “Sáng thế chủ! Xin Người trong ngày tận thế không phán xét tội của con”.

 

3. KỸ THUẬT CHÍNH THỐNG VÀ QUAN NIỆM CŨNG THỂ HIỆN MỸ ĐỨC

Kiến thức cơ bản yêu cầu lý tính, sự chịu đựng và chuyên tâm: Nghệ thuật chính thống hạng nhất đều đòi hỏi phải thực sự học kiến thức cơ bản. Mà dưỡng thành kiến thức cơ bản, thì cần trường kỳ khắc khổ tôi luyện, yêu cầu sự chịu đựng, chuyên tâm… thì chất lượng mới có thể thật sự công phu.

Như kỹ xảo tạo hình tả thực mỹ thuật Tây phương, coi trọng lý tính quan sát và phân tích đối với vật tượng, luyện tập cần cù và không chút lơ là; đòi hỏi thái độ cẩn thận tỉ mỉ, cũng cần phải học hỏi nhiều hơn, thể hiện sự tôn kính tạo hóa.

Nghệ thuật truyền thống Đông – Tây phương, cũng thể hiện ra đầy đủ, khách và chủ, trật tự, cân đối, hài hòa… theo bố cục, tạo hình đến sử dụng màu sắc, tựa như các mối quan hệ luân lý trong xã hội nhân loại, đã lấy chỉnh thể đại cục làm trọng, cũng chú ý đặc biệt đến từng chi tiết nhỏ, giống như một sinh mệnh hữu cơ, mỗi bộ phận đều phát huy công dụng, phối hợp nhịp nhàng thống nhất với nhau.

Không được bỏ qua sức mạnh của thiện

Bức họa:

Bức họa: “Lời kêu gọi thuần khiết” của một học viên Pháp Luân Công, muốn đòi công lý cho những học viên Pháp Luân Công bị đàn áp tại Trung Quốc. (Ảnh: Internet)

Có thể có người cho rằng, trong nghệ thuật chỉ biểu hiện mặt ngay chính tốt đẹp gì đó, có phải là rất nhàm chán sao? Nếu nghệ thuật đều là nhã nhặn, bình hòa, chẳng phải rất hạn chế sao? Dục vọng, ác niệm cũng là một bộ phận tồn tại chân thực của nhân tính, vì sao không thể biểu hiện?

Kỳ thực, trong nghệ thuật hiện rõ ra so sánh thiện ác, chính là giao chiến, đề tài yêu – hận tình – thù chính là mặt xấu của nhân tính, đủ để đem làm kịch bản phát huy sức mạnh đến vô tận. Quan trọng là… điều có thể khiến con người suy nghĩ sâu xa, ghi nhớ bài học giáo huấn hoặc mang đến hy vọng, hoàn toàn là mặt ngay chính dẫn dắt.

Mặt khác, tin chắc rằng, một người có tính bản thiện, “đạo đức” chân chính là đến từ người có tính cách thiện lương, cũng không phải là ràng buộc. Chỉ có lòng người khi muốn phóng túng, “bản thân” đã muốn mù quáng bành trướng theo thời đại, khiến đạo đức bị ước thúc bởi nhân tính, muốn ngăn chặn thước đo đạo đức mà không thấy làm xấu hổ. Kỳ thực một nghệ thuật gia sáng tác đề tài gì đó, lựa chọn thủ pháp biểu hiện gì đó, chính là nhân phẩm của anh ta bày ra, là ý nguyện đắc ý của anh ta, giống như người làm việc tốt hay việc xấu, là lựa chọn của bản thân họ vậy.

Nhưng chúng ta vẫn là hy vọng nhắc nhở mọi người: Không được bỏ qua sức mạnh của thiện. Hiện nay khoa học cũng đã bắt đầu nghiên cứu chứng thực tinh thần là có ảnh hưởng rất lớn đối với vật chất. Tiến sĩ Masaru Emoto người Nhật Bản đã làm thí nghiệm nghiên cứu tinh thể của nước. Thí nghiệm cho thấy rằng, khi cùng một từ, ví dụ như “trí tuệ”, được viết bằng các ngôn ngữ khác nhau và dán lên các khay chứa mẫu nước khác nhau, các tinh thể nước được tạo ra có hình dạng và cấu trúc như nhau.

Nếu bên ngoài khay có các nhãn dán mang tính chất tích cực như “tình thương” hay “cảm ơn”, mẫu nước sẽ tạo ra các tinh thể rực rỡ, ngược lại, mẫu nước từ các khay có dán nhãn tiêu cực như “thù hận” và “ma quỷ” sẽ tạo ra các tinh thể nước xấu xí và biến dạng.

Nhà tâm lý học nổi tiếng David Hawkins trong cuốn sách “Power vs Force” đã chứng minh rằng Thiện và Ác có tần số năng lượng khác nhau. Ông đưa ý thức của con người lập nên bản đồ với phạm vi tỷ lệ 1-1000. Bất kỳ trạng thái nào gây cho con người có các tần số rung động dưới 200 (20.000Hz) sẽ làm suy yếu cơ thể. Ngược lại tần số từ 200 – 1000 sẽ giúp tăng cường cơ thể.

Tiến sĩ Hawkins phát hiện rằng sự trung thực, lòng từ bi và sự thấu hiểu sẽ có thể tăng cường sức mạnh ý chí, cải biến tần số dao động của các lạp tử trong cơ thể, từ đó cải thiện sức khỏe. Những niệm ác sẽ dẫn đến tần số thấp nhất. Khi người ta nghĩ đến các ác niệm thấp kém, họ có thể làm suy yếu chính cơ thể mình. Những thứ như: ác niệm, sự thờ ơ lạnh nhạt, thống hận, sợ hãi, lo lắng, khao khát, tức giận, ghét, kiêu ngạo, những lời chỉ trích… đều có hại đối với chúng ta.

Tần số ở mức 250 là trung tính và mang lại lợi ích cho con người. Ngoài ra các tần số có chiều hướng cao thể hiện ra sự ôn hòa, khoan dung, lạc quan, lý trí, thấu hiểu, chăm sóc, tôn trọng, vui vẻ, điềm tĩnh. Tần số sẽ nằm trong khoảng 600, sự giác ngộ (khai ngộ) có tần số dao động trong khoảng từ 700 – 1000.

Những phân tích nêu trên cũng gián tiếp chứng minh rằng ý tưởng sáng tác thuần chính tốt đẹp, chính là tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa lợi mình lợi người, tạo phúc quần chúng; cũng chỉ có nghệ thuật như vậy mới thực sự khiến người ta thăng hoa.

Lời kết thúc

Theo đuổi thiện lành và tốt đẹp là bản tính tiên thiên của mỗi người. Nghệ thuật tốt đẹp không chỉ khiến người khác vui mừng, hơn nữa đưa người ta hướng tới ánh sáng quang minh, hướng tới cảnh giới tâm linh cao thượng, thậm chí trải nghiệm sự thần thánh, chạm đến chân lý vĩnh hằng.

----- Hết -----

 

Nguồn bài viết: http://tinhhoa.net/thang-hoa-trong-nghe-thuat-nghe-thuat-va-dao-duc-la-cung-mot-nhip-tho-p2.html

 
Bài viết này được sưu tầm và biên tập bởi một Nhóm IPLer của
Chương trình Lãnh đạo Khai phóng IPL khóa 5


Lê Nguyễn Trần Huỳnh
Nguyễn Hoàng Bảo Huy
Phạm Thị Quỳnh Mai
Huỳnh Diệp Mỹ Ngọc
Nguyễn Đình Quý
Trần Minh Dạ Thảo