Nội dung của bài nay nhằm đi tìm những ý nghĩa triết học mà tác giả cho là nền tảng của đạo đức nghề nghiệp. Tác giả cho rằng ý niệm về đạo đức nghề nghiệp xuất phát từ những nền tảng tinh thần sau đây: đó là ý nghĩa của lao động mà Georg Hegel đã có công làm sáng tỏ, ý nghĩa của nghề nghiệp mà Max Weber đã khai triển, và ý nghĩa của hành vi đạo đức theo quan niệm của Immanuel Kant. Bài viết cũng sẽ đề cập tới sự phân biệt cần thiết giữa trật tự đạo đức với trật tự pháp lý, cũng như giữa nghĩa vụ nghề nghiệp với đạo đức nghề nghiệp, và từ đó đi đến một vài nhận xét về yêu cầu xác lập một quan niệm về đạo đức nghề nghiệp theo hướng đạo đức học nghĩa vụ.
Chúng tôi muốn mở đầu bài viết nay bằng ba câu chuyện có thật sau đây để dẫn vào việc luận bàn về ý niệm đạo đức nghề nghiệp.
Câu chuyện thứ nhất do chúng tôi có dịp được nghe kể lại cách đây khá lâu. Một cán bộ từ chiến khu trở về Sài Gòn sau chiến tranh, mướn một ông thợ quét vôi lại căn nhà của mình. Ông đã tỏ ra hết sức ngạc nhiên vì sau khi quét vôi xong, ông thợ khá đứng tuổi dẫn người cán bộ đi một vòng trong nhà rồi nói đại ý rằng ông hãy coi kỹ lại đi, chỗ nào ông thấy không ưng ý thì tôi sẽ làm lại ngay. Người chủ nhà cảm thấy bất ngờ trước thái độ tận tụy vì công việc của người thợ.
Câu chuyện thứ hai là do một người bạn doanh nhân tường thuật lại. Để xây dựng một xưởng chế tác đá quý, anh ta thuê một người thợ đá quý từ Mỹ sang. Sau khi nhận được số bàn chuyên dụng làm bằng gỗ đặt đóng tại một cơ sở nghề mộc, anh ta mời ông thợ Mỹ đến kiểm tra. Ông nay xem xét mấy cái bàn một hồi, rồi bất ngờ lôi hẳn cái ngăn kéo của một cái bàn ra ngoài, lật ngược lên để săm soi mặt dưới của cái ngăn kéo. Chau mày, ông nói chất lượng của cái bàn như vậy là chưa đạt yêu cầu, vì mặt dưới của cái ngăn kéo chưa được bào cho thật nhẵn. Anh bạn của tôi hết sức ngạc nhiên vì lúc sử dụng thì có ai đụng đến mặt dưới của cái ngăn kéo bao giờ!
Câu chuyện thứ ba là vụ một bác sĩ thẩm mỹ bị bắt vì là nghi can làm chết một bệnh nhân rồi ném xác xuống sông Hồng để phi tang mà báo chí đã đăng tải rộng rãi (xem chẳng hạn Tuổi Trẻ, 22/10/2013).
Hai câu chuyện đầu gợi lên những ấn tượng về một ý thức đạo đức nghề nghiệp: cả hai đều có liên quan tới một tâm thế chủ quan mang tính tự giác của người lao động, cũng như chất lượng của sản phẩm lao động. Riêng về câu chuyện thứ ba liên quan tới vị bác sĩ thẩm mỹ thì có thể nảy ra câu hỏi sau đây: sự kiện nay chủ yếu phản ánh một vấn đề thuộc về trật tự đạo đức hay trật tự pháp lý?
Bài viết nay sẽ không đi vào những khía cạnh thực tiễn hay thời sự của vấn đề đạo đức nghề nghiệp, mà chỉ thử nêu lên một số ý tưởng nhằm mục đích đi tìm xem đâu là nguồn gốc của ý thức đạo đức nghề nghiệp, và sau đó phần nào tìm cách trả lời cho câu hỏi vừa nêu trên bằng cách phân biệt giữa trật tự pháp lý với trật tự đạo đức.
Theo thiển ý của chúng tôi, ý niệm về đạo đức nghề nghiệp có thể được truy nguyên từ những nền tảng tinh thần sau đây, tương ứng với hai vế của cụm từ ấy: đó là nghĩa của lao động mà Georg Hegel đã có công làm sáng tỏ, ý nghĩa của nghề nghiệp mà Max Weber đã khai triển (bàn đến lao động xét như đây là nội hàm then chốt của bất cứ hoạt động nghề nghiệp nào), và ý nghĩa của hành vi đạo đức theo quan niệm của Immanuel Kant.
1. Ý NGHĨA CỦA LAO ĐỘNG THEO HEGEL
Có thể nói triết gia người Đức Georg W.F. Hegel (1770-1831) là người đầu tiên đã phân tích ý nghĩa của lao động một cách sâu sắc. Trong cuốn Hiện tượng học tinh thần xuất bản năm 1807, ở một mục nổi tiếng đề cập tới mối quan hệ biện chứng giữa người chủ và nô lệ, Hegel viết rằng "kinh qua lao động, ý thức mới đi đến được với chính mình" (Hegel, 2006, §195, tr. 451), tức là "đạt được tự do và giải phóng" theo lời diễn giải của Bùi Văn Nam Sơn (trong Hegel, 2006, tr. 464). Sở dĩ như vậy là do "lao động kiến tạo hình thể và đào luyện (formt und bildet) – không chỉ cho đối tượng mà cho cả người lao động" (Bùi Văn Nam Sơn, trong Hegel, 2006, tr. 463). Nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn diễn giải tư tưởng của Hegel như sau: người lao động "mang lại hình thể cho sự vật bằng lao động", "biến sự vật (vd: một khối gỗ) thành một cái gì khác (ví dụ: bộ bàn ghế), tức cải biến nó 'theo hình ảnh của mình', theo ý đồ hay kế hoạch bằng lao động, bằng sự hiện thực hóa chính khả thể của mình". Người lao động "tự ngoại tại hóa (hay tự đối tượng hóa, tự xuất nhượng) bằng lao động, và có nghĩa là có thể nhận ra chính mình trong đó" (tức là trong sản phẩm mà mình làm ra). "Qua lao động, một 'thế giới' được kiến tạo nên, đồng thời, trong đó con người 'ở trong nhà nơi chính mình' (bei sich selbst)" (Bùi Văn Nam Sơn, trong Hegel, 2006, tr. 469).
Trong những giáo trình dạy ở Jena, Hegel cho rằng "người ta lao động là đi ra ngoài bản thân để định hình cho thiên nhiên" (theo Trần Văn Toàn, 2011, tr. 44). Trong cuốn Các nguyên lý của triết học pháp quyền (1821), Hegel giải thích thêm rằng những mối tương liên và tương thuộc giữa con người với nhau trong lao động nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của mình, thông qua sự phân công lao động và sự trao đổi sản phẩm, đã đưa cá nhân hạn hẹp lên bình diện phổ quát (Hegel, 2010, §198-200, tr. 564-566, xem thêm Trần Văn Toàn, 2011, tr. 43).
Chính Karl Marx cũng đã từng thừa nhận rằng công lao rất lớn của Hegel là "ý thức được cái yếu tính của lao động" (Trần Văn Toàn, 2011, tr. 40, xem thêm Bùi Văn Nam Sơn, trong Hegel, 2006, tr. 463)(1). Tuy nhiên, khác với Marx, Hegel không coi lao động là cách thức duy nhất để hình thành toàn thể bản tính của con người, vì ông còn nhấn mạnh đến những phạm vi khác như xã hội, chính trị, nghệ thuật và tôn giáo (Trần Văn Toàn, 2011, tr. 44-45).
Theo Trần Văn Toàn (2011, tr. 31-35), "lao động là thứ hoạt động chân tay có ích lợi, giúp cho người ta làm chủ được thế giới sự vật", nó "thay đổi môi trường thành thế giới của mình làm ra", từ đó "lao động là bước đầu và là nền tảng cho văn hóa". Mặt khác, lao động không chỉ bao gồm mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, mà còn giữa con người với nhau.
2. KHÁI NIỆM NGHỀ NGHIỆP XÉT NHƯ MỘT THIÊN CHỨC THEO WEBER
Nếu Hegel có công khai triển ý nghĩa của lao động, thì nhà xã hội học Đức Max Weber (1864-1920) là người đào sâu ý nghĩa của hoạt động nghề nghiệp xét như là một thiên chức của con người. Trong cuốn Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản (1920), Weber đã tìm cách chứng minh rằng tư tưởng đề cao lao động nghề nghiệp của giáo phái Calvin thuộc đạo Tin Lành ở châu Âu trong thế kỷ XVII-XVIII đã trở thành một nền tảng tinh thần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở châu lục nay.
Weber nhận định rằng mặc dù quan niệm đánh giá tích cực các hoạt động thường ngày đã xuất hiện từ thời trung đại hay thậm chí sau thời Hy Lạp cổ đại, "nhưng cho rằng bổn phận được thực hiện thông qua các nghề nghiệp trần thế, rằng bổn phận ấy là hoạt động đạo đức cao nhất mà con người có
thể đảm nhiệm ở đời này – đó chắc chắn là điều mới mẻ" xuất phát từ công cuộc cải cách của đạo Tin Lành theo giáo phái Calvin (Weber, 2008, tr. 141).
Khái niệm Beruf theo Weber không phải chỉ có nghĩa là nghề nghiệp (profession hay job, xét như là một hoạt động mưu sinh), mà còn mang ý nghĩa thiên chức (hay sự kêu gọi, ơn thiên triệu, tương ứng với calling hay vocation trong tiếng Anh và Berufung trong tiếng Đức). Chính vì thế mà chúng tôi dịch từ Beruf là nghề nghiệp - thiên chức. Weber gắn liền khái niệm nay với ý niệm phận sự (aufgabe, task), và vì thế khái niệm nghề nghiệp - thiên chức luôn đi đôi với khái niệm bổn phận (pflicht, duty) ( xem Trân Hưu Quang và Bùi Văn Nam Sơn, 2008, tr. 25).
Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của tinh thần nghề nghiệp - thiên chức trong quá trình hình thành xã hội hiện đại như sau: "Một trong các bộ phận cấu thành của tinh thần tư bản chủ nghĩa hiện đại, và không chỉ của tinh thần này, mà cả của chính nền văn hóa hiện đại, tức là lối sống thuần lý dựa trên ý tưởng Beruf, đã được phát sinh từ tinh thần của nền khổ hạnh Ki-tô giáo" (Weber, 2008, tr. 326).
Theo Talcott Parsons, khái niệm "tinh thần của chủ nghĩa tư bản" nơi Weber (chúng ta có thể hiểu đây chính là tinh thần của xã hội hiện đại) không phải chỉ nói về sự chiếm hữu, mà chủ yếu nói về tư duy lý tính – hiểu như là một tâm thế mở luôn hướng đến những cách giải quyết vấn đề mới, đối lập với óc thủ cựu. Đó là một thái độ tận tâm và chuyên cần đối với công việc vì chính công việc chứ không vì mục đích nào khác, thái độ mà Weber diễn giải qua khái niệm Beruf và được Parsons dịch sang tiếng Anh là calling (Parsons, 1964, tr. 33 và 81).
Sau khi xem xét ý nghĩa của lao động và của nghề nghiệp trong xã hội hiện đại, bây giờ chúng ta chuyển sang tìm hiểu về hành vi đạo đức theo quan niệm đạo đức học nghĩa vụ của Kant.
3. Ý NGHĨA CỦA HÀNH VI ĐẠO ĐỨC THEO KANT
Theo triết gia người Đức Immanuel Kant (1724-1804), "luân lý là tổng thể những quy luật ra mệnh lệnh vô điều kiện để ta phải hành động theo chúng"(2). Mệnh lệnh vô điều kiện nay đư ợc Kant gọi là mệnh lệnh nhất quyết (kategorischer imperativ), tức mệnh đề "phải là" (sollen), tự nó buộc người ta nhất thiết phải hành động mà không phụ thuộc vào bất kỳ một mục đích hay động cơ ngoại tại nào.
Trong cuốn Phê phán lý tính thực hành (1788), Kant cho rằng để có thể nhận diện được thế nào là một hành vi đạo đức, trước hết chúng ta cần phân biệt giữa "ý thức hành động phù hợp [bề ngoài] với nghĩa vụ (pflichtmäßig)" với "ý thức hành động từ nghĩa vụ (aus pflicht)", tức là "chỉ đơn thuần vì quy luật" (Kant, 2007, tr. 152).
Kant cho rằng hành vi có tính luân lý là hành vi được thực hiện "bằng sự tôn kính (achtung) đối với quy luật (...) và từ lòng kính sợ (ehrfurcht) đối với nghĩa vụ của mình", chứ không phải là hành vi chỉ có tính chất "hợp" với nghĩa vụ (Kant, 2007, tr. 153).
Kant đưa ra ý tưởng quan trọng sau đây để minh định nền tảng của hành vi đạo đức: "Sự tự trị (autonomie) của ý chí (will) là nguyên tắc duy nhất của mọi quy luật luân lý và của mọi nghĩa vụ phù hợp với chúng; ngược lại, sự ngoại trị (heteronomie) của sự tự do lựa chọn (willkür) không chỉ không thể làm cơ sở cho bất kỳ bổn phận nào mà còn đối lập lại với nguyên tắc của bổn phận và với luân lý của ý chí" (Kant, 2007, tr. 60, chúng tôi nhấn mạnh, THQ).
Để hiểu được tính tự trị của ý chí thì theo Kant, chúng ta cần đề cập tới khái niệm tự do, vốn là một khái niệm chỉ tồn tại nơi con người với tư cách là những hữu thể có lý tính. Ông viết như sau: "Khái niệm tự do là chìa khóa để giải thích tính tự trị của ý chí. Ý chí là một loại nhân quả [causality] thuộc về những sinh vật có lý tính. Như vậy, sự tự do là thuộc tính của tính nhân quả nay – [thuộc tính nay] có khả năng hành động độc lập với sự quy định của những nguyên nhân ngoại lai; cũng giống như sự tất yếu tự nhiên là thuộc tính đặc trưng cho tính nhân quả của mọi hữu thể phi lý tính – [theo thuộc
tính nay thì] hành động bị quy định bởi ảnh hưởng của những nguyên nhân ngoại lai" (Kant, 2009, tr. 114).
Kant định nghĩa tự do là "khả năng tự mình quyết định hành động như một trí tuệ, và nhờ đó hành động phù hợp với những quy luật của lý tính, độc lập với những bản năng tự nhiên" (Kant, 2009, tr. 127).
Kant nhấn mạnh rằng "nếu giả sử không có Tự do thì cũng tuyệt nhiên không thể bắt gặp quy luật luân lý ở trong ta" (Kant, 2007, chú thích ở tr. 3), bởi lẽ "nhờ sự tự trị của sự Tự do của mình, con người là chủ thể của quy luật luân lý" (Kant, 2007, tr. 160). Khi một người "phán đoán rằng mình có thể làm một việc chỉ vì có ý thức rằng mình phải làm việc ấy", thì lúc đó anh ta "nhận ra sự Tự do nơi chính mình – một điều mà nếu không có quy luật luân lý ắt anh ta không bao giờ nhận ra được" (Kant, 2007, tr. 56). Kant cho rằng "Tự do là ratio essendi [cơ sở tồn tại] của quy luật luân lý, còn quy luật luân lý là ratio cognoscendi [cơ sở nhận thức] về Tự do" (Kant, 2007, chú thích ở tr. 2-3).
Kant còn phân biệt giữa mệnh lệnh giả thiết ("Tôi phải làm điều nay b ởi vì tôi muốn một điều khác") với mệnh lệnh nhất quyết ("Tôi phải làm điều nay cho dù tôi không muốn một điều nào khác"), và cho rằng chỉ có mệnh lệnh nhất quyết mới làm cho một hành vi trở thành một hành vi đạo đức thực thụ. Kant đưa ra thí dụ sau đây cho mệnh lệnh giả thiết, tức là mệnh lệnh phụ thuộc vào một mục đích hay động cơ bên ngoài: "Tôi không được nói dối nếu tôi muốn giữ thanh danh của mình". Nhưng để có được một mệnh lệnh nhất quyết thì chúng ta phải nói: "Tôi không được nói dối cho dù có làm như vậy tôi cũng không hề bị mất thanh danh" (Kant, 2009, tr. 108). Kant cho rằng sở dĩ tôi phải hành động cho hạnh phúc của tha nhân thì không phải vì điều nay đem lại cho tôi một kết quả nào đó (chẳng hạn như sự vui sướng, sự an ủi hay sự tự hào), mà chỉ vì điều nay phù hợp với một châm ngôn có giá trị quy luật phổ quát (Kant, 2009, tr. 109).
4. TRẬT TỰ PHÁP LÝ VÀ TRẬT TỰ ĐẠO ĐỨC
Trở lại với câu chuyện đạo đức nghề nghiệp. Trong vụ vị bác sĩ thẩm mỹ bị tình nghi ném xác bệnh nhân xuống sông mà chúng tôi đã nêu lên ở đầu bài nay, trên báo chí và nhiều diễn đàn trong mạng Internet, đã rộ lên cuộc thảo luận sôi nổi về y đức. Nhưng phải chăng sự kiện nay ch ỉ liên quan tới khía cạnh đạo đức nghề nghiệp? Theo chúng tôi, vụ nay cần được xem xét chủ yếu dưới góc độ pháp lý, vì trước hết nó liên quan tới những điều khoản nhất định của bộ luật hình sự cũng như của nghĩa vụ nghề nghiệp mà vị bác sĩ nay có thể đã vi phạm. Tất nhiên, người ta có quyền nhân cơ hội nay đ ể suy nghĩ về vấn đề y đức, nhưng câu chuyện y đức có lẽ chỉ có thể được thảo luận thấu đáo hơn thông qua nhiều vụ việc khác nữa không trực tiếp liên quan tới khía cạnh pháp lý.
Thiết tưởng chúng ta cần phân biệt rạch ròi giữa trật tự pháp lý với trật tự đạo đức.
Ở đây, chúng tôi hiểu khái niệm trật tự pháp lý không phải chỉ giới hạn trong lĩnh vực luật pháp của nhà nước, mà bao hàm cả những khía cạnh pháp quy thuộc về các tổ chức xã hội khác như các công ty, các đoàn thể hay các hiệp hội nghề nghiệp.
Kant từng nhấn mạnh sự khác biệt giữa "tính hợp lệ" (legalität) của hành động (tức phải hành động phù hợp với nghĩa vụ) với "tính luân lý" (moralität) (liên quan tới động cơ của hành động) (Bùi Văn Nam Sơn, 2007, tr. LI). Khi so sánh hai quan điểm đối lập nhau về đạo đức học giữa Hegel và Kant, Bùi Văn Nam Sơn cho rằng "thật nguy hiểm nếu muốn quy giản luân lý thành pháp lý" như Hegel đã làm, bởi lẽ, theo quan niệm của Kant, "chúng có những khác biệt về nguyên tắc". "Luân lý là quy luật cho con người và có chức năng của một sự cưỡng chế từ bên trong. Khi vi phạm các quy luật luân lý, lương tâm giữ vai trò của một quan tòa nội tâm. Ngược lại, pháp lý cưỡng chế con người từ bên ngoài mà không nhất thiết đi kèm với một động cơ nội tâm nào cả" (Bùi Văn Nam Sơn, 2010, tr. 36).
Khi đề cập tới khái niệm bổn phận (obligation, verpflichtung), André Lalande đã đưa ra một sự phân biệt quan trọng giữa hai động từ sollen và müssen trong tiếng Đức. Cả hai động từ nay đều có thể được dịch là "phải làm" hay "phải là". Nhưng sollen (tiếng Anh là should, ought to) có nghĩa là "phải làm" xét về mặt bổn phận đạo đức, tức là thuộc về trật tự đạo đức. Còn müssen (tiếng Anh: must) có nghĩa là "phải là" hay "phải làm" xét về mặt trật tự tự nhiên hoặc trật tự pháp lý (điều tất yếu, điều bắt buộc, không thể không làm) (André Lalande, 1988, tr. 703).
Nói đến sollen (trật tự đạo đức), chúng ta có thể liên tưởng tới vài thí dụ trong bối cảnh văn hóa Việt Nam như: phải hiếu thảo với cha mẹ; phải nuôi dạy con cái; không được vô lễ với người lớn tuổi; không được đánh con... Còn khi nói đến müssen (trật tự tự nhiên hoặc trật tự pháp lý), có thể liên tưởng tới những thí dụ như: tay làm hàm nhai (phải làm mới có cái mà ăn); phải tôn trọng thời hạn hợp đồng; đến hạn phải trả nợ (có nợ thì phải trả); phải chấp hành nội quy công ty; tới tuổi phải đi học (theo nguyên tắc giáo dục cưỡng bách); tiền trao cháo múc (nhận tiền rồi thì buộc phải múc cháo ra, không được dây dưa, chậm trễ)...
Như vậy đến đây, chúng ta cần tiếp tục phân biệt giữa nghĩa vụ nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp.
5. NGHĨA VỤ NGHỀ NGHIỆP VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
Khái niệm bổn phận đạo đức bao hàm ý chí tự do và sự lựa chọn của con người (André Lalande, 1988, tr. 703), còn khái niệm nghĩa vụ nghề nghiệp thì liên quan đến những điều bắt buộc phải làm, dù muốn hay không muốn, tức là không có tự do lựa chọn làm hay không làm(3). Do vậy, nghĩa vụ nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp là hai phạm trù khác nhau, thuộc về hai trật tự riêng biệt mà chúng ta cần phân biệt như vừa nêu ở đoạn trên. Nghĩa vụ nghề nghiệp nằm trong trật tự pháp lý (thuộc lĩnh vực müssen), còn đạo đức nghề nghiệp thì thuộc về trật tự đạo đức (thuộc lĩnh vực sollen).
Có thể định nghĩa nghĩa vụ nghề nghiệp là hệ thống các quy tắc và chuẩn mực pháp lý và kỹ thuật mà người lao động buộc phải tuân thủ và thực hiện nếu muốn theo một nghề nào đó. Bộ quy chuẩn nay có th ể do nhà nước và/hoặc công ty ban hành. "Một người lao động được gọi là lành nghề là kẻ sản xuất sự vật đúng như nó phải là" (Hegel, 2010, §197, tr. 564).
Còn đạo đức nghề nghiệp là hệ thống các giá trị và chuẩn mực quy định thái độ chủ quan của người lao động đối với công việc và sản phẩm, đối với khách hàng cũng như đồng nghiệp của mình khi làm việc trong một ngành nghề nào đó. Một cách khái quát, chúng ta có thể hiểu rằng tinh thần cốt lõi của đạo đức nghề nghiệp chính là thái độ tận tâm, tận tụy với công việc vì chính công việc, chứ không vì những mục đích bên ngoài. Chỉ trong chừng mực nay, chúng ta mới có thể hiểu được một cách sâu xa ý nghĩa của điều mà chúng ta thường gọi là lòng yêu nghề.
Liên quan tới nghĩa vụ nghề nghiệp, người ta thường nói tới những ý niệm như bổn phận chu toàn phận sự, năng lực chuyên nghiệp, ý thức kỷ luật, trách nhiệm giải trình (accountability). Còn khi đề cập tới đạo đức nghề nghiệp, người ta thường hiểu đây là một dạng ý thức hướng đến những đòi hỏi cao hơn xuất phát từ bên trong nội tâm, một thái độ lao động vượt lên trên những yêu cầu tối thiểu của các quy chuẩn nghề nghiệp xét về mặt pháp lý bên ngoài
Sau đây là một vài thí dụ về nghĩa vụ nghề nghiệp: y tá là người phải chăm sóc bệnh nhân; giáo viên phổ thông phải dạy cho đúng chương trình của bộ giáo dục; người thủ quỹ phải giữ tiền cho an toàn (nghĩa là chuyện "không được thụt két" là điều đương nhiên vì hành vi nay vư ợt ra khỏi nghĩa vụ nghề nghiệp). Và một vài thí dụ về đạo đức nghề nghiệp: người y tá phải tận tụy với bệnh nhân; thầy giáo phải hết lòng thương yêu học trò; người thủ quỹ phải niềm nở với người đến nhận tiền.
Không ai khen thưởng một người thủ quỹ vì đã không "thụt két", bởi lẽ việc cất giữ tiền là nhiệm vụ đương nhiên của người nay, tức thuộc trật tự pháp lý. Cũng tương tự như vậy, không ai tặng huy chương cho một giáo viên ngày nào cũng đến lớp đúng giờ; người giáo viên chỉ được khen thưởng nếu tỏ ra tận tụy một cách mẫu mực với công việc và với học trò chẳng hạn, nghĩa là những hành vi thuộc về trật tự đạo đức của nhà giáo.
Các chuẩn mực của nghĩa vụ nghề nghiệp cũng như các chuẩn mực của đạo đức nghề nghiệp đều không phải là những cái bất biến và vĩnh cửu; chúng luôn luôn phụ thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử xã hội nhất định và có thể biến đổi theo thời gian. Một chuẩn mực đạo đức đến một lúc nào đó có thể trở thành một quy phạm pháp lý, và ngược lại. Chẳng hạn, nguyên tắc giữ bí mật nghề nghiệp trong nghề y hay nghề luật sư ngày xưa chỉ thuộc về lĩnh vực đạo đức nghề nghiệp, nhưng về sau dần dà trở thành những quy tắc pháp lý ở nhiều quốc gia
6. LƯƠNG TÂM CHỨC NGHIỆP
Sự khác biệt giữa trật tự đạo đức và trật tự pháp lý trong hoạt động nghề nghiệp còn thể hiện ở điểm sau: khi đề cập đến đạo đức nghề nghiệp, người ta thường nói tới lương tâm chức nghiệp.
Vậy lương tâm là gì? Kant coi lương tâm là "một quan năng diệu kỳ trong bản thân ta", nó có khả năng đưa ra "những lời phán xử" đối với chính ta (Kant, 2007, tr. 173). Kant giải thích một cách đầy hình tượng như sau: "Một người có thể tha hồ dùng mọi cách để tô vẽ và biện hộ cho hành vi trái luân lý của mình, chẳng hạn nhắc lại nó như như một lỗi lầm không cố ý, một sự thiếu cẩn trọng (...); song anh ta cũng thấy rằng vị trạng sư biện hộ không có cách nào làm cho kẻ tố cáo ở ngay bên trong chính bản thân anh ta im lặng được (...), không thể bảo vệ anh ta thoát khỏi sự quở trách đối với chính mình. (...) Đó cũng chính là cơ sở của lòng hối hận về một hành vi đã xảy ra từ lâu mỗi khi nhớ lại, một cảm giác đau đớn do chính tình cảm luân lý tạo ra" (Kant, 2007, tr. 173-174). Chúng ta hoàn toàn có thể ứng dụng ý tưởng của Kant để hiểu thêm về lương tâm chức nghiệp đang bàn ở đây.
Nghĩa vụ nghề nghiệp chỉ đòi hỏi ông thợ quét vôi quét cho xong căn nhà theo y như yêu cầu của chủ nhà, cũng như chỉ đòi hỏi cái bàn chế tác đá quý phải được đóng thế nào cho đúng với đơn đặt hàng của xưởng chế tác. Nhưng chính ý thức đạo đức nghề nghiệp, hay lương tâm nghề nghiệp, mới là cái đã thôi thúc ông thợ quét vôi nói với người chủ nhà rằng chỗ nào ông thấy không ưng ý thì tôi sẽ quét lại, và đã khiến cho ông thợ chế tác đá quý phải khó chịu khi thấy mặt dưới ngăn kéo của cái bàn chế tác đá quý chưa được bào cho thật nhẵn. Có thể nói lương tâm nghề nghiệp là một động lực tinh thần thúc đẩy người lao động vươn đến sự hoàn hảo, vì bản thân công việc, chứ không vì đồng lương hay vì phần thưởng.
Chúng ta có thể hiểu rằng khái niệm đạo đức nghề nghiệp có lẽ cũng bao hàm cả những ý niệm liên quan tới cái chân, cái thiện và cái mỹ. Trong ý thức đạo đức nghề nghiệp, bên cạnh lòng say mê và tận tụy với công việc, người ta không chỉ dừng lại ở những yêu cầu về các tiêu chuẩn bên ngoài của sản phẩm lao động, mà còn tự mình đặt ra yêu sách làm sao cho kết quả lao động của mình được thật tốt, thật đẹp, hoàn hảo hết mức có thể được. Hiển nhiên là điều nay ch ỉ có thể xuất phát từ chính lương tâm của người lao động mà thôi, chứ không ai cưỡng ép nổi. Hiểu theo chiều hướng nay , chúng ta mới thấy quả thực là "lao động kiến tạo hình thể và đào luyện không chỉ cho đối tượng mà cho cả người lao động" (Bùi Văn Nam Sơn, trong Hegel, 2006, tr. 463).
Báo Tuổi Trẻ gần đây có đăng một bài phóng sự rất hấp dẫn về nghề "len trâu" (tức là lùa đàn trâu có khi hàng trăm con đi đến những vùng đất cao để có cỏ cho chúng ăn, đi hết nơi nay tới nơi khác, có khi đi vài tháng trời mới về). Ở xã Thường Thới Tiền thuộc tỉnh Đồng Tháp, phóng viên đã gặp được bà Út Em, 60 tuổi, đi chăn trâu suốt từ khi lên 5 tuổi cho tới nay. Bà tâm sự: "Cha tui nói coi trâu cũng là một nghề, mình không thương trâu thì đừng làm nghề này, nên tui không bao giờ gởi nhờ người khác đi len, đồng xa mấy tui cũng đi, tự tay chăm sóc trâu. Mỗi lần bán trâu là tui khóc suốt ngày như bán con mình vậy"(4).
Chuyện bà Út Em thương trâu như con mình có thể được coi như một hình ảnh tiêu biểu về ý nghĩa của lao động theo Hegel cũng như ý nghĩa của nghề nghiệp - thiên chức theo Weber
7. NHẬN ĐỊNH
Lý thuyết đạo đức học của Kant thường được gọi là đạo đức học nghĩa vụ (deontological ethics) – vốn nhấn mạnh tới nguyên tắc tự trị của lương tâm đạo đức – đối lập với lý thuyết đạo đức học định chế của Hegel (Bùi Văn Nam Sơn, 2010, tr. 35) cũng như các lý thuyết đạo đức học vốn dựa trên hậu quả (consequentialist ethics) hay dựa trên mục đích (teleological ethics) để định nghĩa một hành vi đạo đức (Bùi Văn Nam Sơn, 2007, tr. XIII).
Chúng tôi cho rằng trong hoàn cảnh thực tế của Việt Nam ngày nay, cần xác lập lại quan niệm về đạo đức nghề nghiệp theo hướng đạo đức học nghĩa vụ của Kant, nghĩa là chú trọng tới động cơ chủ quan của người lao động, tới lương tâm của cá nhân, tới sự "tôn kính" các quy tắc của bổn phận nghề nghiệp, tận tụy với công việc vì chính công việc, chứ không phải vì bất cứ mục đích ngoại tại nào khác, như để được lòng người khác, để có tiền, hay để được khen thưởng... – những điều nay, nếu có, chỉ là (và phải được coi là) hệ quả của quá trình lao động, chứ không phải là mục tiêu. Có lẽ cần hiểu câu "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh" theo nghĩa đó, chứ không phải "nghệ tinh" là để được "vinh thân" hay "phì gia"!
Một câu hỏi có thể được đặt ra ở đây là phải chăng tình trạng xem nhẹ đạo đức nghề nghiệp khá phổ biến hiện nay chính là hệ quả của tình trạng suy thoái về đạo đức xã hội nói chung? Theo thiển ý chúng tôi, suy cho cùng, cả hai thực trạng này thực ra đều bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính: đó là sự khủng hoảng của triết lý đạo đức xã hội, cũng như sự rạn nứt trong trật tự luật pháp.
Triết lý về đạo đức xã hội ở Việt Nam trong nhiều thập niên qua mang đậm xu hướng chính trị hóa trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và văn hóa. Nếu nói theo ngôn từ của Kant thì đó là một triết lý đạo đức đặt nền tảng trên sự ngoại trị, chứ không dựa trên sự tự trị. Xu hướng này coi trọng tiêu chuẩn "chính trị" hơn là năng lực chuyên nghiệp (trọng "hồng" hơn "chuyên"), đề cao chiều kích chính trị hơn là chiều kích đạo đức, quan tâm tới mục đích hơn là phương tiện (mục đích biện minh cho phương tiện), chú trọng kết quả và thành tích hơn là thái độ và hành vi đi đến kết quả, do đó không quan tâm tới động lực nội tâm và tiếng nói của lương tâm... Hệ quả sâu xa của xu hướng nay trong triết lý giáo dục là chỉ nhằm mục tiêu đào tạo ra những con người công cụ, chứ không nhắm đến mẫu người tự do biết độc lập tư duy và phán đoán
Hậu quả nghiêm trọng của thứ triết lý đạo đức "ngoại trị" ấy là những căn bệnh mà hiện nay đã xâm thực vào hầu hết các lĩnh vực và các định chế xã hội, như bệnh thành tích, bệnh thi đua(5), bệnh giả dối, bệnh sống hai mặt, bệnh chạy chọt, tệ mua quan bán chức, thói làm ăn gian dối, hay tệ phe cánh điển hình cho một thứ chủ nghĩa tư bản bè phái thân hữu (cronyism)… (xem thêm Trần Hữu Quang, 2012).
Trở lại của chủ đề đạo đức nghề nghiệp, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng trong mối quan hệ giữa trật tự đạo đức và trật tự pháp lý trong lĩnh vực nghề nghiệp, trật tự pháp lý phải có trước – nghĩa là phải điển chế hóa một cách chặt chẽ và thực thi nghiêm túc các quy chuẩn của từng nghề nghiệp nhất định. Bởi lẽ trật tự đạo đức chỉ có thể hình thành trên cơ sở một trật tự pháp lý lành mạnh và ổn định. Vụ bác sĩ thẩm mỹ bị nghi ném xác bệnh nhân xuống sông, theo chúng tôi, là một sự kiện điển hình cho tình trạng khủng hoảng trong trật tự pháp lý – nói cách khác, sự kiện nay tuy cá biệt nhưng là dấu hiệu phản ánh một tình hình xã hội nghiêm trọng hơn nhiều so với chuyện suy thoái y đức.
Chỉ khi nào xác lập được vững chắc một nền kỷ luật nghề nghiệp và ý thức nghĩa vụ nghề nghiệp (trật tự pháp lý), thì lúc đó mới có thể nói đến đạo đức nghề nghiệp (trật tự đạo đức) cũng như lòng yêu nghề. Nếu trật tự pháp lý bị rạn nứt thì có nói đạo đức nghề nghiệp đến mấy cũng bằng thừa. Tuy nhiên, trật tự pháp lý chỉ là một chiều kích tối thiểu. Muốn xây dựng được một nội lực mạnh (trong một công ty nói riêng hay trong một xã hội nói chung) thì lại phải cần đến chiều kích đạo đức nghề nghiệp. Những câu chuyện về lòng yêu nghề và ý thức đạo đức nghề nghiệp của những người thợ thủ công cổ truyền Nhật Bản là những bằng chứng minh họa sinh động cho điều nay.
Ý thức đạo đức nghề nghiệp là một trong những động lực và những nền tảng tinh thần của một nền kinh tế hiện đại cũng như của một xã hội hiện đại.
Tác giả: Trần Hữu Quang
Phó giáo sư, tiến sĩ Xã hội học. Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ.
Nguồn: www.academia.edu/30559914/Luận_về_ý_nghĩa_triết_học_của_đạo_đức_nghề_nghiệp
Chương trình Lãnh đạo Khai phóng IPL khóa 5
Văn Thị Ngọc Dung
Trần Đỗ Tâm Giao
Phan Duy Khánh
Hoàng Thị Thanh Thảo
Lê Nguyên Thông
Nguyễn Ngọc Trâm